Monday, March 11, 2024

W.A. TTCB #23 Phán đoán


23. PHÁN ĐOÁN 

Chúng ta đã thấy một số bước của quá trình tinh thần, trong đó những cảm giác đơn giản được chuyển thành cảm nhận và sau đó thành khái niệm hoặc ý tưởng chung. Việc hình thành khái niệm được coi là bước quan trọng đầu tiên trong tư duy. Bước quan trọng thứ hai trong tư duy là sự hình thành ‘phán đoán’. Định nghĩa về ‘phán đoán’, như thuật ngữ này được sử dụng trong logic; là ‘sự so sánh trong tâm trí hai ý tưởng về sự vật và xác định xem chúng đồng thuận hay không đồng thuận với nhau, hay cái này có thuộc về cái kia hay không. Do đó, phán đoán là (a) khẳng định hoặc (b) phủ định, như (a) 'Tuyết có màu trắng' hoặc (b) 'Toàn bộ người da trắng không phải là người châu Âu’.

Cái mà logic gọi là ‘mệnh đề’ là sự thể hiện bằng lời của một phán đoán logic. Hyslop định nghĩa thuật ngữ ‘mệnh đề’ như sau: ‘Bất kỳ sự khẳng định hay phủ nhận nào về sự đồng thuận giữa hai khái niệm’. Ví dụ, chúng ta so sánh các khái niệm ‘chim sẻ’ và ‘chim’ và thấy rằng có  sự thống nhất, và chim sẻ thuộc về chim; quá trình tinh thần này là một sự phán đoán. Sau đó chúng ta công bố phán đoán trong mệnh đề: ‘Chim sẻ là một con chim’. 

Theo cách tương tự, chúng ta so sánh khái niệm ‘dơi’ và ‘chim’, thấy có sự bất đồng và đưa ra phán đoán rằng không bên nào thuộc về bên nào, điều mà chúng ta thể hiện trong mệnh đề: ‘Con dơi không phải là chim’. Hoặc chúng ta có thể hình thành phán đoán rằng ‘vị ngọt’ là một đặc tính của ‘đường’, mà chúng ta diễn đạt trong mệnh đề: ‘Đường thì ngọt’. Tương tự như vậy, chúng ta có thể hình thành phán đoán dẫn đến mệnh đề: ‘Dấm không ngọt’.

 Mặc dù quá trình phán đoán thường được coi là cấu thành nên bước quan trọng thứ hai của tư duy, diễn ra sau sự hình thành khái niệm, và bao gồm việc so sánh các khái niệm, nhưng cần nhớ rằng hành động phán đoán còn sơ đẳng hơn thế nhiều, vì nó còn được tìm thấy ở xa hơn nữa trong lịch sử của quá trình tư duy. Theo quy luật nghịch lý đặc biệt mà chúng ta thấy ở khắp mọi nơi trong các quá trình tâm trí, quá trình hình thành phán đoán tương tự được sử dụng để so sánh các khái niệm cũng đã được sử dụng để hình thành các khái niệm tương tự trong giai đoạn so sánh. Trên thực tế, kết quả của mọi sự so sánh dù cao hay thấp đều phải là sự phán đoán.

Halleck nói: 'Sự phán đoán là cần thiết trong việc hình thành các khái niệm. Khi chúng ta quyết định xem  một phẩm chất nào đó có phổ biến hay không đối với một loại, chúng ta thực sự đang phán đoán. Đây là một bằng chứng khác về sự phức tạp và hành động thống nhất của tâm trí'.

Brooks nói: 'Sức mạnh phán đoán có giá trị rất lớn trong các sản phẩm của mình. Nó tham gia hoặc đồng hành với mọi hành động của trí tuệ, và do đó là nền tảng cho mọi hoạt động trí tuệ. Nó hoạt động trực tiếp trong mọi hành động của sự hiểu biết và thậm chí còn hỗ trợ các năng lực khác của tâm trí trong việc hoàn thành các hoạt động và sản phẩm của chúng. * * * Nói một cách chính xác, mọi hành động khôn ngoan của tâm trí đều đi kèm với sự phán đoán. Biết là phân biệt, và do đó, là phán đoán. Mọi cảm giác hoặc nhận thức đều liên quan đến một kiến thức và do đó một phán đoán rằng nó tồn tại. Tâm trí hoàn toàn không thể suy nghĩ mà không phán đoán; suy nghĩ là phán đoán. Ngay cả khi hình thành những ý niệm mà phán đoán so sánh, tâm trí cũng phán đoán. Mọi ý niệm hay khái niệm đều hàm ý một hành động phán đoán trước đó để hình thành nên nó; khi hình thành một khái niệm, chúng ta so sánh các thuộc tính chung trước khi kết hợp chúng, và so sánh là phán đoán. Như vậy đúng là ‘Mọi khái niệm đều là phán đoán thu nhỏ; mọi phán đoán đều là khái niệm mở rộng’. 

Không cần phải nói, vì các phán đoán là nền tảng tư duy của chúng ta, và cũng xuất hiện trong tất cả các phần của cấu trúc cao hơn của nó, nên tầm quan trọng của phán đoán đúng đắn trong tư duy là rất lớn. Nhưng thường rất khó để đưa ra phán đoán chính xác ngay cả đối với những điều quen thuộc nhất xung quanh chúng ta. 

Halleck nói: 'Trong cuộc sống thực tế, mọi thứ xuất hiện với chúng ta dưới những đặc tính được ngụy trang hoặc che khuất bởi những đặc tính xung đột khác. Con người từ lâu đã nhìn thấy các chất cháy và hình thành khái niệm về chúng. Họ thường thấy một chất đá cứng, màu đen nào đó và hình thành một khái niệm về nó. Khái niệm này không hoàn hảo; nhưng rất hiếm khi chúng ta gặp được những khái niệm hoàn hảo, rõ ràng trong cuộc sống thực tế. Vì vậy, trong nhiều thế kỷ, khái niệm chất cháy chưa bao giờ được liên kết bằng phán đoán với khái niệm than đá. Tính dễ cháy của than bị lu mờ bởi thuộc tính đá của nó. ‘Tất nhiên là đá sẽ không cháy’, người ta nói. Không thể nói chính xác sự phát triển của nhân loại đã bị trì hoãn  bao lâu vì lý do này. Nước Anh ngày nay sẽ không sản xuất sản phẩm cho phần còn lại của thế giới nếu không có ai đó phán đoán than là chất dễ cháy. * * * Sự phán đoán luôn âm thầm hoạt động và so sánh những điều mà với các thời đại trước dường như là khác biệt; và nó liên tục trừu tượng hóa và loại bỏ khỏi tầm nhìn những phẩm chất vốn chỉ đơn giản là làm lu mờ vấn đề’.

Gordy nói: ‘Sự cả tin của trẻ em thì ai cũng biết; nhưng nếu chúng ta có được sự thật trực tiếp, nếu chúng ta nghiên cứu ‘đứa trẻ sống, học tập, vui chơi’, chúng ta sẽ thấy rằng chúng  xuất sắc cả về sự hoài nghi và cả tin. Lời giải thích rất đơn giản: Đứa trẻ có xu hướng tin vào gợi ý đầu tiên xuất hiện trong đầu mình, bất kể từ nguồn nào; và vì niềm tin của trẻ không phải là kết quả của bất kỳ quá trình duy lý (dựa trên lý trí) nào, nên đứa bé không thể bị buộc phải không tin vào điều đó theo bất kỳ cách duy lý nào. Do đó trẻ rất cả tin về bất kỳ vấn đề nào mà nó không có ý tưởng gì; nhưng chỉ cần ý tưởng một lần chiếm hữu tâm trí trẻ, đứa bé sẽ trở nên xuất sắc về sự hoài nghi cũng như trước đây từng xuất sắc về sự cả tin. 

** * Nếu chúng ta nghiên cứu một đứa trẻ lớn hơn – một người đàn ông có đầu óc của một đứa trẻ, một người thất học - chúng ta cũng sẽ bị áp đặt một sự thật tương tự. Nếu niềm tin của con người dựa trên quá trình lý luận, thì nơi nào họ không lý luận được họ sẽ không tin. Nhưng chúng ta có thấy điều này đúng không? Chẳng phải những người có quan điểm tích cực nhất về các chủ đề đa dạng nhất - theo những gì họ từng nghe về chúng - lại chính là những người có ít quyền lợi nhất đối với chúng? 

Chúng ta nhớ Socrates được coi là người khôn ngoan nhất ở Athens bởi vì ông một mình chống lại xu hướng tự nhiên của mình là tin vào sự thiếu vắng bằng chứng; chỉ mình ông không tự lừa dối mình bằng sự tự phụ về kiến thức không có thực tế; và không hề cường điệu khi nói rằng sức mạnh trí tuệ của con người tỉ lệ thuận với số lượng những điều mà họ tuyệt đối chắc chắn. 

* * * Tất nhiên, tôi không có ý nói rằng chúng ta không nên có ý kiến gì về những vấn đề mà chúng ta chưa đích thân xem xét. Chúng ta tiếp nhận và nên tiếp nhận ý kiến của một số người về luật, những người khác về y học, và những người khác về các ngành khoa học dặc biệt, v.v. Nhưng chúng ta phải nhận rõ sự khác biệt giữa việc giữ quan điểm dựa trên sự tin tưởng và giữ quan điểm dựa trên kết quả điều tra của chính chúng ta’.

Brooks nói: 'Một trong những mục tiêu hàng đầu của văn hóa giới trẻ là hướng dẫn họ hình thành thói quen đưa ra những phán đoán. Họ không chỉ nên được dẫn dắt để nhìn thấy mọi thứ mà còn có ý kiến về mọi thứ. Họ cần được đào tạo để nhìn nhận mọi việc trong các mối quan hệ của chúng và đặt những mối quan hệ này vào các mệnh đề rõ ràng. Ý tưởng của họ về các vật thể nên được phát triển thành những suy nghĩ liên quan đến các vật thể đó. Những phương pháp giảng dạy tốt nhất là những phương pháp kích thích thói quen suy nghĩ của tâm trí, nhận thấy sự giống nhau và đa dạng của các vật thể và nỗ lực đọc những suy nghĩ mà chúng thể hiện và tượng trưng’.

Việc nghiên cứu logic, hình học và khoa học tự nhiên được khuyến khích để rèn luyện và phát triển khả năng phán đoán. Việc nghiên cứu và thực hành ngay cả những ngành toán học thấp hơn cũng rất hữu ích theo hướng này. Trò chơi cờ đam hay cờ vua được nhiều chuyên gia uy tín khuyến khích. Một số người ủng hộ việc thực hành giải các câu đố, bài toán, câu đố chữ v.v. như là cách rèn luyện khả năng này của tâm trí. Việc trau dồi thái độ ‘Tại sao?’ của tâm trí, và việc trả lời các câu hỏi tinh thần của chính mình cũng rất hữu ích, nếu không dẫn đến cực đoan. ‘Thomas đa nghi’ (một người từ chối tin vào bất cứ điều gì nếu không thấy bằng chứng) không phải lúc nào cũng là một thuật ngữ chê trách trong thói quen tư duy khoa học ngày nay, và ‘người đàn ông đến từ Missouri’ được rất nhiều người ngưỡng mộ nồng nhiệt.

StarGate dịch từ cuốn 
Tâm trí của bạn và cách sử dụng nó 
Tác giả William Walker Atkins 

*****

Bài tiếp theo: #24 Những quy luật cơ bản của tư duy

MỤC LỤC 

No comments:

Post a Comment